Tìm hiểu tác giả tác phẩm
Tác giả: Hạ Huyền
- Hạ Huyền là một cây bút chuyên viết truyện ngắn, truyện đọc thêm cho thiếu nhi và học sinh THCS. Bà từng cộng tác với nhiều nhà xuất bản, trong đó có NXB Giáo dục Việt Nam.
- Tác phẩm của Hạ Huyền thường hướng đến việc bồi dưỡng đạo đức, nhân cách, giáo dục lối sống nhân ái, đồng cảm cho lứa tuổi học sinh.
- Văn phong giản dị, dễ hiểu, giàu cảm xúc, thường khai thác những tình huống nhỏ nhưng có giá trị nhân văn sâu sắc.
Tác phẩm: “Thằng Gù”
- Thể loại: Truyện ngắn
- Xuất xứ: Trích trong Con gái người lính đảo (tập truyện), NXB Giáo dục, 2003. Được sử dụng làm truyện đọc thêm môn Ngữ văn và Giáo dục công dân cấp THCS.
- Tóm tắt nội dung:
Truyện kể về một cậu bé tên Đức, bị gù lưng, thường bị gọi là “thằng Gù” và bị bạn bè trêu chọc, xa lánh. Một lần, làng có đoàn hát rong, trong đó có một cậu bé cũng bị gù như Đức. Người dân, cả người lớn lẫn trẻ con, đều tụ tập cười đùa trước những tiết mục của cậu bé gù. Đức xuất hiện, không cười mà lên tiếng phản bác sự độc ác của đám đông, bày tỏ sự đồng cảm với người cùng cảnh ngộ. Hành động của Đức khiến cả đám đông bừng tỉnh, lặng đi trong xấu hổ và ân hận. - Giá trị nội dung:
- Phê phán thái độ vô cảm, độc ác của xã hội trước những con người khuyết tật, thiệt thòi.
- Ngợi ca lòng dũng cảm, tình yêu thương, và sự cảm thông sâu sắc giữa những con người cùng cảnh ngộ.
- Giáo dục bài học đạo đức sống nhân ái, biết đặt mình vào hoàn cảnh người khác.
- Giá trị nghệ thuật:
- Ngôi kể thứ nhất tạo sự gần gũi, chân thực.
- Khắc họa nhân vật sống động qua hành động, chi tiết giàu biểu cảm.
- Xây dựng tình huống truyện bất ngờ nhưng hợp lý, gây xúc động mạnh.
Đọc hiểu văn bản Thằng gù của Hạ Huyền
THẰNG GÙ
Làng tôi có một đứa trẻ bị tật nguyền. Nó tên là Đức, một cái tên hẳn hoi nhưng tất cả bọn trẻ chúng tôi đều gọi tên nó là thằng Gù. Lên mười tuổi mà thằng Gù vẫn chưa đi học, chẳng hiểu do mặc cảm hay do điều gì khác. Nhiều hôm từ trong phòng học (phòng học của chúng tôi ở tầng hai), tôi thấy thằng Gù chăn trâu ngoài cánh đồng. Cái hình người gấp khúc, chỗ đỉnh gù cao hơn chỏm đầu khiến tôi nhận ngay ra nó. Nó và con trâu giống như hai chấm đen nổi lên giữa màu xanh rười rượi của cánh đồng. Nó đứng nhìn về phía trường học. Tiếng đọc bài đồng thanh của chúng tôi vang vang lan tỏa ra xung quanh. Chắc nó nghe được tiếng đọc bài. Cái chấm đen gấp khúc, bé nhỏ dường như bất động. Chỉ có con trâu thỉnh thoảng lại vươn cổ lên kêu “nghé ọ” một hồi dài.
Thằng Gù lảng tránh tất cả các trò chơi của chúng tôi. Những tiếng trêu chọc: “Ê, con lạc đà châu Phi”, “Tránh ra chúng mày ơi cho bà còng đi chợ” làm nó càng cúi gập người xuống, mắt dí vào bụng. Nó im lặng len lét vòng qua chỗ chúng tôi đang chơi đùa. Có lần, nó bỏ chạy. Bọn trẻ cười ré khi thấy cái hình gấp khúc đó cứ như lăn về phía trước. Chao ôi, thằng Gù …
[…] Một buổi chiều mưa vừa dứt, nắng mới tưng tửng hé sáng vạt đồi, chúng tôi chợt nghe tiếng đàn ghi ta vang lên từ chiếc loa nén nào đó. Có người hát rong về làng. Đây quả là cả một sự kiện đối với cái làng đang mê mệt, thiếp lặng đi sau những trận mưa ròng rã này. Chúng tôi ùa ra xem. Người lớn, trẻ con, vòng trong, vòng ngoài lố nhố vây quanh đoàn người hát rong. Tôi gọi là đoàn vì họ có tới ba người. Hai đứa trẻ và một người đàn ông mang kính đen, đeo cây đàn ghi ta trước bụng. Trong hai đứa trẻ, có một đứa giống hệt thằng bé tật nguyền của làng tôi. Nó cũng bị gù.
Nó biểu diễn nhiều trò. Buồn cười nhất là trò trồng cây chuối. Không phải nó trồng cây chuối bằng tay và đầu như lũ trẻ chúng tôi thường làm. Nó trồng bằng cái lưng gù. Đoạn gấp giữa đỉnh gù và đầu thành cái đế đỡ đôi chân khẳng khiu của nó dựng đứng. Mỗi lần nó trồng cây chuối mọi người lại cười ồ. Có người hứng chí vỗ tay hét: “Trồng lại đi, thế thế …”. Nghe tiếng hô, thằng gù đỏ căng mặt mày, lên gân tì cái lưng gù xuống đất cố duỗi thẳng đôi chân. Phải trồng cây chuối nhiều lần nên trán nó ướt nhầy mồ hôi. Đã thế tiếng hô “Làm lại đi” vẫn thúc giục không ngớt.
Giữa lúc đó thì nó chen chân vào. Thằng Gù của làng tôi. Tiếng cười rộ: “À, hai thằng gù. Đức ơi, mày trồng thêm cây chuối nữa đi”. Tôi nín thở nhìn theo nó. Nó chen vào làm gì, cho tiền những người hát rong chăng? Tiếng ghi ta điện vẫn bập bùng, rấm rứt. Nó từ từ đi đến bên “cây chuối” người. Đỡ thằng bé gù đứng thẳng lại, nó bỗng quắc mắt nhìn vòng người vây quanh. Bất ngờ nó thét:
– Thế mà cười được à? Đồ độc ác!
Sau tiếng thét của nó, đám đông bừng tỉnh. Tiếng cười tắt lặng. Người đàn ông đang gảy đàn cũng dừng tay sững sờ. Tất cả các cặp mắt dồn về nó. Khuôn mặt thằng Đức đẫm lệ. Nó móc túi áo ngực lôi ra những đồng tiền được gấp cẩn thận đặt vào lòng mũ của người hát rong. Đôi vai nó rung rung thổn thức. Cái vòng người đang vây quanh tự nhiên gãy vỡ. Đứt từng quãng. Không ai bảo ai, từng người một lặng lẽ tan dần. Tất cả bọn trẻ chúng tôi đứa nào cũng cúi gằm mặt xuống. Tiếng sấm ì ùng từ dãy núi dội đến. Hình như trời lại sắp mưa.
(Theo Hạ Huyền, Con gái người lính đảo, Truyện đọc thêm môn
Giáo dục công dân và môn Ngữ văn ở THCS, NXB Giáo dục, 2003)
Câu 1 (0,5đ): Truyện ngắn trên được kể theo ngôi kể nào?
Câu 2 (0,5đ): Chỉ ra lời của nhân vật, lời của người kể chuyện trong những câu văn sau: “Đỡ thằng bé gù đứng thẳng lại, nó bỗng quắc mắt nhìn vòng người vây quanh. Bất ngờ nó thét:
– Thế mà cười được à? Đồ độc ác!”
Câu 3 (1,0 đ): Tìm và nêu tác dụng của biện pháp tu từ trong câu văn sau: “Nó và con trâu giống như hai chấm đen nổi lên giữa màu xanh rười rượi của cánh đồng.”
Câu 4 (1,0đ): Trong đoạn văn in đậm, những chi tiết nào cho thấy thái độ, cách ứng xử của người xem với cậu bé gù trong đoàn hát rong? Nhận xét về thái độ và cách ứng xử đó.
Câu 5 (1,0đ): Từ câu chuyện trên, em rút ra bài học gì cho bản thân?
Hướng dẫn giải chi tiết
Câu 1. Truyện ngắn trên được kể theo ngôi kể thứ nhất
Câu 2.
– Lời của nhân vật: “Thế mà cười được à? Đồ độc ác!” (lời của thằng Đức)
– Lời của người kể chuyện: “Đỡ thằng bé gù đứng thẳng lại, nó bỗng quắc mắt nhìn vòng người vây quanh. Bất ngờ nó thét:”
Câu 3.
– Biện pháp tu từ: So sánh (Nó và con trâu giống như hai chấm đen nổi lên giữa màu xanh rười rượi của cánh đồng.)
– Tác dụng: Câu văn sử dụng biện pháp so sánh để làm nổi bật sự nhỏ bé, cô độc của thằng Gù giữa không gian rộng lớn của cánh đồng. Hình ảnh “hai chấm đen” giữa màu xanh bát ngát không chỉ gợi lên sự đối lập giữa con người và thiên nhiên mà còn gợi cảm giác lạc lõng, cô đơn của nhân vật. Qua đó, tác giả khắc họa rõ hơn số phận thiệt thòi của Đức.
Câu 4.
– Những chi tiết thể hiện thái độ, cách ứng xử của người xem với cậu bé gù trong đoàn hát rong:
+ “Mọi người lại cười ồ” mỗi khi cậu bé gù biểu diễn trò trồng cây chuối.
+ “Có người hứng chí vỗ tay hét: ‘Trồng lại đi, thế thế…’”
+ “Nghe tiếng hô, thằng gù đỏ căng mặt mày, lên gân tì cái lưng gù xuống đất cố duỗi thẳng đôi chân.”
+ “Đã thế tiếng hô ‘Làm lại đi’ vẫn thúc giục không ngớt.”
– Nhận xét:
Đám đông không nhìn nhận cậu bé gù như một con người đáng được tôn trọng mà chỉ coi cậu như một công cụ mua vui.
Họ cười cợt trước nỗi đau và sự khổ sở của cậu bé, hò hét đòi cậu tiếp tục biểu diễn mà không quan tâm đến sự mệt mỏi hay cảm xúc của cậu.
Đây là cách ứng xử vô cảm, thiếu sự đồng cảm và tôn trọng đối với những người có hoàn cảnh đặc biệt.
Câu 5.
+ Qua đoạn trích trên, tác giả đã đem đến cho người đọc một bài học sâu sắc về cách ứng xử với những người có hoàn cảnh khó khăn.
+ Trước hết, chúng ta cần hiểu rằng mọi người đều xứng đáng được tôn trọng, dù họ có khuyết tật hay khác biệt về ngoại hình. Sự chế giễu, cười cợt trước nỗi đau của người khác là hành động vô cảm và tàn nhẫn.
+ Hiểu được điều đó, chúng ta cần biết đồng cảm, sẻ chia với những người yếu thế, đối xử với họ bằng lòng trắc ẩn và sự tôn trọng, chứ không nên vô tâm hay có những hành động làm tổn thương họ.
+ Đây là bài học quan trọng giúp chúng ta có cái nhìn nhân văn hơn về cuộc sống, từ đó hình thành những hành vi đúng đắn, góp phần xây dựng một xã hội nhân ái, nơi con người biết yêu thương và tôn trọng lẫn nhau. Thiết nghĩ, bài học này không chỉ có ý nghĩa với cá nhân mỗi người mà còn hữu ích với cả cộng đồng và xã hội.
Câu hỏi mở rộng từ tác phẩm
Câu hỏi nội dung – tư duy – cảm nhận
Câu 1. Phân tích hành động và lời nói của nhân vật Đức trong đoạn cao trào của truyện. Em học được điều gì từ nhân vật này?
Câu 2. Vì sao tác giả không gọi tên thật của nhân vật chính (Đức) từ đầu mà lại gọi là “thằng Gù”? Việc này có tác dụng gì trong mạch truyện?
Câu 3. Chi tiết “khuôn mặt thằng Đức đẫm lệ” và “đôi vai rung rung thổn thức” có ý nghĩa như thế nào trong việc biểu hiện tâm trạng nhân vật?
Câu 4. Hình ảnh kết thúc truyện – tiếng sấm ì ùng và đám đông lặng lẽ tan dần – có ý nghĩa biểu tượng gì?
Câu 5. Qua truyện “Thằng Gù”, em cảm nhận được gì về nỗi cô đơn của những đứa trẻ bị khiếm khuyết về thể chất?
Câu hỏi liên hệ – vận dụng
Câu 1. Liên hệ truyện “Thằng Gù” với câu chuyện hoặc hiện tượng đời thực về cách con người đối xử với người khuyết tật. Em suy nghĩ gì?
Câu 2. Em hãy viết một đoạn văn ngắn (5–7 câu) nêu suy nghĩ về câu nói: “Tôn trọng người khác là cách thể hiện nhân cách của chính mình.”
Câu 3. Nếu em là người chứng kiến sự việc trong truyện, em sẽ làm gì khác đi?
Câu 4. Hãy liên hệ nhân vật Đức với nhân vật bé Chi trong truyện “Đồng vọng ngược chiều” (Lã Thế Khanh) để nêu suy nghĩ về tình yêu thương giữa những người cùng cảnh ngộ.
Câu 5. Viết một đoạn văn trình bày suy nghĩ về sự vô cảm trong xã hội ngày nay, bắt nguồn từ câu chuyện “Thằng Gù”.
Câu hỏi trắc nghiệm khách quan
Câu 1. Truyện “Thằng Gù” được kể theo ngôi kể nào?
A. Ngôi thứ nhất
B. Ngôi thứ hai
C. Ngôi thứ ba
D. Ngôi thứ ba toàn tri
Đáp án: A
Câu 2. Tên thật của nhân vật chính trong truyện là gì?
A. Gù
B. Đức
C. Nam
D. Không có tên cụ thể
Đáp án: B
Câu 3. Hành động nào sau đây thể hiện sự dũng cảm của Đức?
A. Tránh xa đám đông
B. Cho tiền người hát rong
C. Lên tiếng phản đối sự cười cợt của người xem
D. Khóc lóc trước mọi người
Đáp án: C
Câu 4. Câu văn “Nó và con trâu giống như hai chấm đen nổi lên giữa màu xanh rười rượi của cánh đồng.” sử dụng biện pháp tu từ nào?
A. Nhân hóa
B. Ẩn dụ
C. So sánh
D. Hoán dụ
Đáp án: C
Câu 5. Bài học sâu sắc nhất rút ra từ truyện là gì?
A. Phải cố gắng học tập dù hoàn cảnh khó khăn
B. Không nên hát rong vì dễ bị coi thường
C. Cần biết yêu thương, tôn trọng người khuyết tật
D. Tránh xa những người bị dị tật
Đáp án: C