Quê hương từ lâu nay đã trở thành nguồn cảm hứng của nhiều nhà thơ nhà văn. Dưới đây là bài văn Phân tích tình yêu quê hương trong bài thơ quê hương của Tế Hanh

Dàn ý phân tích tình yêu quê hương trong bài thơ quê hương của Tế Hanh

a. Mở bài: Giới thiệu vấn đề cần nghị luận

b. Thân bài

* Khái quát tác giả Tế Hanh

– Tế Hanh sinh ra tại một làng chài ven biển tỉnh Quảng Ngãi

– Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác

+ Ông có mặt trong phong trào thơ Mới ở chặng cuối với những bài thơ mang nỗi buồn và tình yêu quê hương

+ Sau năm 1945, Tế Hanh sáng tác phục vụ cách mạng và kháng chiến

+ Ông được nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật

– Phong cách sáng tác: thơ ông chân thực với cách diễn đạt bằng ngôn ngữ giản dị, tự nhiên và rất giàu hình ảnh, bình dị mà tha thiết

* Khái quát về bài thơ Quê hương

– Bài thơ viết năm 1939, khi Tế Hanh đang học tại Huế trong nỗi nhớ quê hương-một làng chài ven biển tha thiết. Bài thơ được rút trong tập Nghẹn ngào (1939) và sau đó được in trong tập Hoa niên (1945).

– Bài thơ đã vẽ ra một bức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển. Trong đó nổi bật lên hình ảnh khỏe khoắn, đầy sức sống của người dân chài và cảnh sinh hoạt lao động chài lưới. Qua đó cho thấy thấy tình cảm quê hương trong sáng, tha thiết của nhà thơ.

* Phân tích bài thơ

– Hai câu thơ đầu: hình ảnh quê hương hiện lên trong nỗi nhớ của nhà thơ

+ Lời thơ vang lên ngắn gọn, tự nhiên nhưng cụ thể từ công việc thường ngày đến vị trí của “làng tôi”. Đó là một làng chài, bốn bể sông nước bao vây.

+ Vị trí của làng chài cách biển nửa ngày sông

-> Hình ảnh quê hương hiện lên giản dị mà đầy thân thương

– 8 câu thơ tiếp theo: hình ảnh về con người lao động đưa đoàn thuyền đánh cá ra khơi:

+ Thời gian đoàn thuyền đánh cá ra khơi là một buổi “sớm mai hồng”.

+ Không gian: trời trong, gió nhẹ

->  gợi cho người đọc niềm tin, hy vọng của những người ngư dân bắt đầu cuộc hành trình mới của chính mình, hứa hẹn một chuyến ra khơi đầy thắng lợi.

+ Hình ảnh con thuyền ra khơi được nhà thơ miêu tả “hăng như con tuấn mã”.

+ Nghệ thuật so sánh kết hợp với những động từ mạnh như “hăng”, “phăng”, vượt”

+ Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng: Cánh buồm chính là linh hồn của làng chài, là biểu tượng của làng chài quê hương, sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hoá “ rướn thân trắng” kết hợp với các động từ mạnh đã biến con thuyền trở nên chủ động hơn, mạnh mẽ hơn.

-> Con thuyền đầy kiêu hãnh, tự tin, làm chủ vũ trụ, biển cả rộng lớn, mong ước một chuyến ra khơi bội thu với đầy tôm cá.

– 8 câu thơ tiếp: niềm hi vọng, lạc quan trong ánh mắt của ngư dân mong đợi một ngày mai làm việc với bao kết quả tốt đẹp:

+ Những tính từ “ồn ào”, “tấp nập”: toát lên không khí nhộn nhịp, vui tươi, hối hả đầy sôi động của đoàn thuyền đánh cá ra khơi trở về.

+ Câu thơ “Nhờ ơn trời, biển lặng cá đầy ghe” vang lên như lời cảm tạ chân thành của nhà thơ với đất trời, biển cả.

+ Hình ảnh người dân làng hiện lên với “ làn da ngăm rám nắng”, “nồng thở vị xa xăm”.

+ Hình ảnh “con thuyền” được nhân hóa “im bến mỏi trở về nằm” kết hợp với nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác khiến cho con thuyền trở nên có hồn, có sức sống như con người cơ thể cũng nuộm vị nắng gió xa xăm.

– Khổ thơ cuối là tiếng lòng của một người con xa quê hướng về quê hương, về đất nước

+ Tế Hanh nhớ về những hình ảnh, màu sắc bình dị, thân thuộc và đặc trưng nhất của vùng quê ven biển, đó là màu xanh của nước, màu bạc của cá, màu vôi của cánh buồm, hình ảnh con thuyền, mùi mặn mòi của biển.

* Đánh giá giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ

– Bài thơ đem lại ấn tượng khó phai về một làng chài cách biển nửa ngày sông, lung linh sóng nước , óng ả nắng vàng

– Ngôn ngữ trong bài thơ đơn giản nhưng mang tính gợi cảm và sức sống mạnh mẽ.

– Hình ảnh trong bài thơ được tạo dựng phong phú và truyền đạt ý nghĩa sâu sắc. – Bài thơ sử dụng nhiều phép tu từ

c. Kết bài

– Khái quát lại vấn đề cần nghị luận.

 

Bài văn phân tích tình yêu quê hương trong bài thơ quê hương của Tế Hanh

Không phải ngẫu nhiên mà Rasul Gamzatov đã từng tâm niệm rằng: “Thơ ca bắt nguồn từ những âm vang của tâm hồn”. Thật vậy, thơ ca muôn đời là nơi bộc lộ những trở trăn, những thổn thức của trái tim người nghệ sĩ trước cuộc đời. Và thơ của Tế Hanh cũng chính là nỗi niềm chân thành của thi nhân. Đến với thế giới nghệ thuật của nhà thơ, người đọc sẽ bắt gặp những cảm xúc đầy dư âm qua thi phẩm “ Quê hương”:

“Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới:

Nước bao vây cách biển nửa ngày sông.

…..

Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ

Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,

Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,

Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!”

Tế Hanh là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam. Ông sinh ra tại một làng chài ven biển tỉnh Quảng Ngãi. Ông có mặt trong phong trào thơ Mới ở chặng cuối với những bài thơ mang nỗi buồn và tình yêu quê hương. Sau năm 1945, Tế Hanh sáng tác phục vụ cách mạng và kháng chiến. Ông được nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Thơ ông chân thực với cách diễn đạt bằng ngôn ngữ giản dị, tự nhiên và rất giàu hình ảnh, bình dị mà tha thiết.

Quê hương là một bài thơ đặc sắc của nhà thơ Tế Hanh. Bài thơ viết năm 1939, khi Tế Hanh đang học tại Huế trong nỗi nhớ quê hương-một làng chài ven biển tha thiết. Bài thơ được rút trong tập Nghẹn ngào (1939) và sau đó được in trong tập Hoa niên (1945). Bài thơ đã vẽ ra một bức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển. Trong đó nổi bật lên hình ảnh khỏe khoắn, đầy sức sống của người dân chài và cảnh sinh hoạt lao động chài lưới. Qua đó cho thấy thấy tình cảm quê hương trong sáng, tha thiết của nhà thơ.

Trước hết, hình ảnh quê hương hiện lên trong nỗi nhớ của nhà thơ qua hai câu thơ mở đầu:

“Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới:

Nước bao vây cách biển nửa ngày sông.”

Lời thơ vang lên ngắn gọn, tự nhiên nhưng cụ thể từ công việc thường ngày đến vị trí của “làng tôi”. Đó là một làng chài, bốn bể sông nước bao vây. Vị trí của làng chài cách biển nửa ngày sông. Hình ảnh quê hương hiện lên giản dị mà đầy thân thương, chiếm lĩnh tâm hồn của nhà thơ. Nhớ về quê hương, ấn tượng đẹp và in sâu đậm trong lòng nhà thơ Tế Hanh đó là hình ảnh về con người lao động đưa đoàn thuyền đánh cá ra khơi:

“Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng,

Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã

Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang.”

Khung cảnh của biển cả thiên nhiên hiện lên thật nhẹ nhàng. Thời gian đoàn thuyền đánh cá ra khơi là một buổi “sớm mai hồng”. Thời gian ấy gợi cho người đọc niềm tin, hy vọng của những người ngư dân bắt đầu cuộc hành trình mới của chính mình, hứa hẹn một chuyến ra khơi đầy thắng lợi. Hình ảnh con thuyền ra khơi được nhà thơ miêu tả “hăng như con tuấn mã”. Nghệ thuật so sánh kết hợp với những động từ mạnh như “hăng”, “phăng”, vượt”  không chỉ cho thấy sự dũng mãnh khoẻ khoắn, đầy tự tin của con thuyền khi lướt sóng ra khơi mà còn thể hiện tư thế tráng sĩ, hồ hởi, tràn đầy sinh lực của những con người trong tư thế làm chủ biển cả rộng lớn mênh mông. Với những người dân sông nước, con thuyền đã trở thành người bạn đồng hành đáng tin theo năm tháng. Con thuyền mang vẻ đẹp hào hùng, tráng lệ. Hiện lên cùng với hình ảnh con thuyền là hình ảnh cánh buồm trắng giương to mang vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn:

‘Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…”

Cánh buồm như mảnh hồn làng. Cánh buồm vốn là vật vô tri, hữu hình nhưng nhà thơ đã đặt trong liên tưởng với “mảnh hồn làng”. Cánh buồm chính là linh hồn của làng chài, là biểu tượng của làng chài quê hương, nơi lưu giữ biết bao nét đẹp của miền sông nước và tâm hồn người dân nơi đây. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hoá “ rướn thân trắng” kết hợp với các động từ mạnh đã biến con thuyền trở nên chủ động hơn, mạnh mẽ hơn. Con thuyền đầy kiêu hãnh, tự tin, làm chủ vũ trụ, biển cả rộng lớn, mong ước một chuyến ra khơi bội thu với đầy tôm cá. Cả đoạn thơ là khung cảnh quê hương và người dân làng chài đánh thuyền ra khơi.

Khổ thơ là sự phấn khởi, là niềm hi vọng, lạc quan trong ánh mắt của ngư dân mong đợi một ngày mai làm việc với bao kết quả tốt đẹp:

“Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ

Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.

“Nhờ ơn trời, biển lặng cá đầy ghe”,

Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.”

Những tính từ “ồn ào”, “tấp nập” toát lên không khí nhộn nhịp, vui tươi, hối hả đầy sôi động của đoàn thuyền đánh cá ra khơi trở về. Cánh buồm trắng ra khơi nay trở về với ghe đầy cá “những con cá tươi ngon thân bạc trắng”. Đó là thành quả tuyệt vời của người dân làng chài sau hành trình ra khơi khó khăn, vất vả. Câu thơ “Nhờ ơn trời, biển lặng cá đầy ghe” vang lên như lời cảm tạ chân thành của nhà thơ với đất trời, biển cả. Nhờ đất trời đã yên sóng, biển lặng để người dân chài trở về an toàn và cá đầy ghe. Nhà thơ Tế Hanh không miêu tả hành trình ra khơi đánh bắt cá của người dân làng chài, nhưng người đọc dường như cảm nhận được những giờ phút lao động không mệt mỏi để đạt được thành quả như mong đợi. Sau chuyến ra khơi là hình ảnh con thuyền và con người trở về trong ngơi nghỉ:

“Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng 

Cả thân hình nồng thở vị xa xăm 

Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm 

Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.”

Có thể nói rằng đây chính là những câu thơ hay nhất, tinh tế nhất của bài thơ.Hình ảnh người dân làng hiện lên với “ làn da ngăm rám nắng”, “nồng thở vị xa xăm”. Nhà thơ sử dụng phép tả thực kết hợp với lãng mạn đã lột tả được vẻ đẹp khỏe khoắn vạm vỡ trong từng làn da thớ thịt của người dân chài. Hình ảnh “con thuyền” được nhân hóa “im bến mỏi trở về nằm” kết hợp với nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác khiến cho con thuyền trở nên có hồn, có sức sống như con người cơ thể cũng nuộm vị nắng gió xa xăm. Khổ thơ là bức tranh sinh động về một làng chài đầy ắp niềm vui, gợi tả một cuộc sống bình yên, no ấm. Không phải người con làng chài thì không thể viết hay như thế, tình như thế, và cũng chỉ viết được những câu thơ như vậy khi tâm hồn Tế Hanh hòa vào cảnh vật cả hồn mình để lắng nghe.  Nhà thơ không chỉ thấy con thuyền nằm im trên bến mà còn thấy cả sự mệt mỏi của nó. Cũng như dân chài, con thuyền có vị mặn của nước biển, con thuyền như đang lắng nghe chất muối của đại dương đang thấm trong từng thớ vỏ của nó. Thuyền trở nên có hồn hơn, nó không còn là một vật vô tri vô giác nữa mà đã trở thành người bạn của ngư dân. Ngôn ngữ trong bài thơ đơn giản nhưng mang tính gợi cảm và sức sống mạnh mẽ. Sự khỏe khoắn và hào hùng của ngôn từ thể hiện sự tôn vinh và yêu thương đối với quê hương. Hình ảnh trong bài thơ được tạo dựng phong phú và truyền đạt ý nghĩa sâu sắc. Những hình ảnh về người dân chài và công việc đánh bắt cá được miêu tả một cách ví von và sinh động. Bài thơ sử dụng nhiều phép tu từ một cách khéo léo, giúp tạo nên hiệu ứng nghệ thuật đặc biệt và làm tăng thêm giá trị thẩm mỹ của bài thơ.

Khổ thơ cuối là tiếng lòng của một người con xa quê hướng về quê hương, về đất nước:

“Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ 

Màu nước xanh, cá bạc, chiếc thuyền vôi 

Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi 

Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá.”

Đến với những vần thơ này, người đọc mới biết được tiếng lòng của nhà thơ, một người con xa quê nhớ về quê hương thân yêu của mình. Tế Hanh nhớ về những hình ảnh, màu sắc bình dị, thân thuộc và đặc trưng nhất của vùng quê ven biển, đó là màu xanh của nước, màu bạc của cá, màu vôi của cánh buồm, hình ảnh con thuyền, mùi mặn mòi của biển. Khổ thơ đã diễn tả nỗi nhớ quê hương chân thành da diết và sự gắn bó sâu nặng với quê hương.

Bài thơ đem lại ấn tượng khó phai về một làng chài cách biển nửa ngày sông, lung linh sóng nước , óng ả nắng vàng. Ngôn ngữ trong bài thơ đơn giản nhưng mang tính gợi cảm và sức sống mạnh mẽ. Hình ảnh trong bài thơ được tạo dựng phong phú và truyền đạt ý nghĩa sâu sắc. Bài thơ đã sử dụng nhiều phép tu từ làm cho hình ảnh thơ trở nên sinh động, hấp dẫn, có hồn hơn trong lòng người đọc. Tất cả làm nên thành công của bài thơ. Hai chữ “Quê hương” vang lên thật thân thương, trìu mến biết bao. Bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh không chỉ là riêng tình cảm của tác giả dành cho quê hương; mà bài thơ này còn nói hộ rất nhiều tấm lòng của những người con đang xa quê, nhớ về quê hương thân yêu của mình. Qua đó, chúng ta càng trân trọng hơn nữa mảnh đất chôn rau cắt rốn, yêu hơn nữa những điều bình dị nhưng thiêng liêng.

By ngocnhu

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *