Tìm hiểu tác giả tác phẩm
Tác giả: Thanh Tịnh (1911 – 1988)
- Tên thật: Trần Văn Ninh, quê ở Huế.
- Phong cách sáng tác:
- Là nhà văn, nhà thơ lãng mạn nổi bật trong nền văn học hiện đại Việt Nam.
- Văn xuôi Thanh Tịnh giàu chất trữ tình, nhẹ nhàng, sâu lắng, giàu cảm xúc nhân văn.
- Thường viết về cuộc sống bình dị, những con người nhỏ bé, khốn khó nhưng đầy tình thương, lòng nhân ái.
- Tác phẩm tiêu biểu:
- Truyện ngắn: Tôi đi học, Am cu ly xe, Ngậm ngải tìm trầm…
- Thơ: Những giọt lệ, Giấc mộng ngàn năm…
Tác phẩm: “Am cu ly xe”
- Hoàn cảnh sáng tác: Trích trong tập Văn & đời, in lần đầu năm 2011 bởi NXB Thuận Hóa.
- Thể loại: Truyện ngắn
- Tóm tắt nội dung:
Truyện kể về một người kéo xe mù già cùng đứa cháu nhỏ mưu sinh khổ cực tại ga Văn Xá. Vì thương ông, đứa cháu từng đặt một tảng đá lên xe để ông tưởng có khách. Cuối cùng, ông già chết giữa đêm giá lạnh vì kiệt sức và nỗi đau tinh thần. Câu chuyện khép lại bằng hình ảnh đầy ám ảnh về cái bóng xe tay huyền ảo cùng tấm lòng tri ân của dân làng. - Giá trị nội dung:
- Phản ánh cuộc sống cơ cực của người lao động nghèo trong xã hội cũ.
- Thể hiện tình cảm gia đình thiêng liêng, tấm lòng nhân hậu giữa những con người nghèo khổ.
- Ngợi ca lòng hiếu thảo và những hi sinh thầm lặng.
- Giá trị nghệ thuật:
- Giọng văn trữ tình, giàu cảm xúc.
- Kết hợp yếu tố hiện thực và yếu tố kì ảo, mang đậm phong vị dân gian.
- Sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, giàu tính biểu cảm.
Đọc hiểu văn bản Am cu ly xe của Thanh Tịnh
AM CU LY XE
-Thanh Tịnh-
Mới nghe qua tên am, tôi đã tưởng họ bông đùa. Nhưng không, người kể cho tôi nghe nói với giọng nghiêm chỉnh lắm. Cái am ấy nhỏ bằng vôi dựng trên bờ sông Bồ thuộc về làng Thanh Trúc. Trong am chỉ đặt một bát lư hương và cặp đòn con bằng gỗ tiện. Trước cửa am có che một bức sáo xanh kẻ chữ thọ màu hồng. Cách am năm bước có cái mồ đắp lên cao. Ngôi mả của người cu-ly xe.
Chuyện am này ở hai vùng Thanh Lương và Hương Cần ai cũng biết. Họ thường kể cho người lạ nghe với một giọng chắc chắn đáng tin. Ðược dịp kể nhiều nhất là bà bán quán gần am đấy. Và khách qua lại muốn được nghe chuyện chỉ việc uống một bát nước chè hay ăn vài đĩa xôi đậu. Bà quán kể lâu quá thành có duyên và lắm đoạn nghe xuôi như đọc thuộc lòng.
Ga Văn Xá làm lễ lạc thành xong thì sau đó hai tuần một người mù đem chiếc xe tay đến đón khách. Ðó là một cái xe thảm khổ nhất. Ruột hai bánh độn rơm và trần xe đã thủng nhiều chỗ. Khổ hơn nữa là người kéo xe mù lại già, đầu tóc bạc phơ, người gầy gò và trán hói. Theo đúng đường và biết tránh người đi là nhờ đứa cháu nội lên mười chạy dìu phía trước. Rồi ngày bốn buổi, hai ông cháu lên ga Văn Xá đón khách về huyện Quảng Ðiền. Ðời tuy vất vả nhưng có kẻ thương tình nên cũng đủ sống. Lệ thường cứ mỗi vòng được năm xu. Hai ông cháu ngày nào cũng kiếm được một vài hào đủ tiêu dùng, cơm cháo.
[…]Từ ngày có xe lửa, dân mấy vùng quê ai cũng thèm đi. Họ cốt đi để mua vui thôi. Ði bộ đối với họ lúc ấy là một chuyện phiền. Nhưng được người kéo xe khoẻ mạnh thì chẳng nói gì. Ðằng này lại khác. Bước chân lên xe người mù già, thì người khổ chưa hẳn là người phải kéo xe mà thật ra là người được ngồi. Huống chi ở đây lại phải chịu cái tội trông một đứa trẻ chạy không kịp thở, ngã tới vờn lui, theo bước chân của một ông già yếu đuối. Nên nhiều người thương hại không muốn đi xe. Nhưng lòng nhân đạo càng ban truyền ra, người kéo xe mù lại càng túng thiếu. Rồi sau chỉ những người ốm hay già yếu lắm – thỉnh thoảng có vài người say rượu – mới bước lên xe của hai ông cháu. Lắm người không đi, chỉ gửi vài bao hành lý họ cũng trả tiền hẳn hoi. Nhưng hạng người này hiếm lắm. Ðợi năm sáu chuyến tàu mới gặp được một người.
Tối đến, hai ông cháu thường ngủ trong một cái mui thuyền đặt khum khum trên bờ sông. Sáng mai ba giờ đã phải dậy. Vì phải đợi khách bên huyện Quảng qua sông đi chuyến tàu bốn giờ.
[…]Xe độ ấy ế vô cùng. Và gặp cái xe trần thủng, nước tát vào như dội, khách cũng thấy chán không buồn đi. Và đêm nào lên ga đợi chuyến tàu suốt chín giờ, hai ông cháu cũng dẫn xe về không.
[…]Một đêm trung tuần tháng chạp, chuyến xe suốt lại trễ mất ba giờ. Lúc ấy, vào giữa đêm. Nghe tàu đến, hai ông cháu đã mừng thầm trong bụng. Một lát sau, con tàu đã bắt đầu sục sịch chạy, người kéo xe vẫn chưa nhận thấy có tiếng bước chân nào khỏi ga. Ông hỏi cháu nhưng thằng bé đã lẩn đi ngả nào, ông chắc nó đang đứng đón khách ở sân ga nên định bụng chờ. Mấy phút sau, đứa bé trở về, ông già mù cảm thấy hình như có một người bước lên xe. Ðứa bé nói với giọng run run:
– Ông ơi, có người lên đó. Ông chạy đi.
Thế rồi hai ông cháu dìu nhau chạy về phía sông Bồ, qua những quãng đường lầy lội và dưới dòng mưa đêm lạnh giá.[…]. Ðến bên đò làng Thanh vào khoảng một giờ khuya. Gió ngoài thổi vào lạnh như cắt thịt. Ðứa cháu sắp dắt ông vào mui thuyền thì như nghi ngại điều gì, người kéo xe mù đã cất tiếng hỏi:
– Tiền xe mô đưa cho ông?
Ðó là một câu hỏi bất ngờ vì mấy lần trước có bao giờ ông hỏi đến đâu. Hay cũng hỏi cho biết số, chứ chưa lúc nào ông định giữ lấy. Ðứa cháu run lẩy bẩy, lúng túng rồi bỗng ôm mặt khóc. Chỉ nghĩ thoáng qua người kéo xe mù đã hiểu ra lẽ thật. Có gì đâu, không thấy khách và muốn ông nó vui lòng, thằng bé đã bê một tảng đá nặng đặt lên nệm xe và dìu ông nó chạy.
Trí non nớt của nó có ngờ đâu mấy năm lao khổ trong nghề, ông nó phân biệt rất tinh tường người ngồi và vật đặt khác nhau nhiều lắm. Nhưng ông nó vẫn chạy, vì mù quáng, vì đói rách nên lòng vẫn hy vọng những chuyện không bao giờ có được. Và biết ra thì thêm khổ. Thấy cháu khóc, ông cũng nức nở theo.
Rồi giữa đêm lạnh, phần già yếu, phần đau buồn, phần đói rét, ông gục xuống dần rồi lăn ra chết ngất.
Ðứa bé sợ thất thanh la hét nghe đứt ruột. Nhưng gió của trời thét mạnh hơn và tiếng nó đành chịu rã rời bay lạc giữa đêm mưa tầm tã. Bên kia sông, huyện Quảng Ðiền xa quá. Chỉ còn vài ngọn đèn dầu chập chờn trong xóm quê đen tối. Con đò đã cắt đường qua lại từ lâu, không đem được lòng từ thiện của bến kia qua bao trùm nỗi thảm thương của bờ nọ.
Sáng mai đi chợ Thanh Lương, khách qua đường thấy trên bờ sông vắng một đứa trẻ thơ đang ngồi khóc thảm thiết bên cạnh một người già nua đã chết cứng đờ. Dân quanh xóm thương tình, người ít kẻ nhiều dồn nhau lại mua cái hòm mới và chôn cất người kéo xe già tử tế.
Về sau đêm nào cũng như đêm nào, vào khoảng mười một giờ khuya, sau chuyến tàu suốt ra Bắc một giờ, những người ở quanh vùng đó đều thấy một cái bóng xe tay loang loáng chạy về phía làng Thanh Trúc. Người làm giữa ruộng dưới đêm trăng, các em mục đồng và cả sư cụ chùa Linh Hải đều nhận thấy nhiều lần. Và giữa đêm mưa lạnh ông từ làng Thanh Trúc còn nghe thấy cả tiếng nhạc xe trước cổng đình nữa…
Người ta bàn tán và nói rất nhiều. Lúc ấy, làng Thanh Trúc được kiện nên cho thuyền đưa khách qua lại như cũ. Gặp lúc vui dân làng liền quyên tiền để xây cái am cho người kéo xe “linh hiển”.
(Thanh Tịnh – Văn & đời, Ngô Vĩnh Bình, NXB Thuận Hóa, 2011, tr. 221-224)
Chú thích:
Tác giả Thanh Tịnh (1911-1988) được người đọc yêu mến qua thơ và truyện ngắn. Truyện ngắn của ông mang đầy phong vị Huế và tạo riêng cho ông một thi pháp văn xuôi độc đáo. Là một nhà thơ lãng mạn, Thanh Tịnh đã mang vào truyện ngắn chất trữ tình sâu lắng. Đọc những truyện ngắn của Thanh Tịnh, người ta thường ít chú ý đến cốt truyện mà chỉ nhớ cái không khí, cái dư vị quyến luyến ngọt ngào, có pha chút ngậm ngùi buồn thương. Cảm giác ấy lắng sâu trong tâm hồn người đọc và cùng với cảm giác đó là một âm hưởng buồn buồn thấm thía qua những trang văn.
Thực hiện các yêu cầu từ 1 đến 5
Câu 1. Xác định điểm nhìn trong truyện.
Câu 2. Chỉ ra những đặc điểm của nhân vật chính trong truyện.
Câu 3. Nêu tác dụng của phép tu từ chêm xen trong câu văn sau: Về sau đêm nào cũng như đêm nào, vào khoảng mười một giờ khuya, sau chuyến tàu suốt ra Bắc một giờ, những người ở quanh vùng đó đều thấy một cái bóng xe tay loang loáng chạy về phía làng Thanh Trúc
Câu 4. Nêu cảm nhận về nhân vật người cháu qua chi tiết “thằng bé đã bê một tảng đá nặng đặt lên nệm xe”.
Câu 5. Nhận xét của anh/chị về phần kết của tác phẩm “Về sau, đêm nào cũng như đêm nào…. người kéo xe linh hiển”.
Hướng dẫn giải chi tiết
Câu 1.
Điểm nhìn: nhân vật “tôi”.
Câu 2.
Đặc điểm của nhân vật chính: Ông già mù, đầu tóc bạc phơ, người gầy gò và trán hói.
Câu 3.
– Biện pháp tu từ chêm xen: vào khoảng mười một giờ khuya, sau chuyến tàu suốt ra Bắc một giờ
– Tác dụng:
+ Bổ sung ý nghĩa phụ chú cho trạng ngữ “Về sau đêm nào cũng như đêm nào”, giúp xác nhận thông tin một cách cụ thể, chi tiết về sự việc những người ở quanh vùng đêm nào cũng thấy một cái bóng xe tay loang loáng chạy về phía làng Thanh Trúc.
Câu 4.
Nhân vật người cháu qua chi tiết “thằng bé đã bê một tảng đá nặng đặt lên nệm xe”:
– Thằng bé bê tảng đá đặt lên xe vì không thấy khách và muốn ông nó vui lòng
– Nhân vật có tấm lòng hiếu thảo,
– Nhân vật có cảnh ngộ thật đáng thương.
Câu 5.
HS trả lời theo quan điểm của cá nhân, viết câu trả lời đúng dung lượng.
Gợi ý:
Nhận xét về phần kết của tác phẩm:
– Hình ảnh người kéo xe linh hiển xuất hiện và hành động của người dân làng Thanh Lương tuy không tạo ra kết thúc có hậu cho tác phẩm nhưng góp phần giảm bớt không khí bi thương não nề của tác phẩm.
– Chi tiết kì ảo làm câu chuyện hấp dẫn, lôi cuốn.
Các câu hỏi mở rộng từ tác phẩm
Câu hỏi nội dung – tư duy – cảm nhận
Câu 1. Phân tích tình huống truyện trong Am cu ly xe và nêu tác dụng của nó trong việc thể hiện chủ đề tác phẩm.
Câu 2. Hãy nêu cảm nhận của em về tình cảm ông cháu trong truyện ngắn này.
Câu 3. Vì sao người dân trong truyện lại gọi người kéo xe là “linh hiển”? Hình ảnh này mang ý nghĩa gì?
Câu 4. Theo em, điều gì khiến hình ảnh người kéo xe mù để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc?
Câu 5. Em có đồng tình với việc đưa yếu tố kì ảo vào phần kết của truyện không? Vì sao?
Câu hỏi liên hệ – vận dụng
Câu 1. Liên hệ với truyện ngắn Lão Hạc (Nam Cao) để so sánh hình ảnh những con người nghèo khổ nhưng giàu tình cảm.
Câu 2. Em hãy viết một đoạn văn nêu suy nghĩ về lòng hiếu thảo từ truyện Am cu ly xe.
Câu 3. Từ hành động đặt tảng đá lên xe của đứa bé, liên hệ đến vai trò của lòng yêu thương và sự hi sinh trong gia đình ngày nay.
Câu 4. So sánh nghệ thuật xây dựng kết thúc trong Am cu ly xe và Tôi đi học – đều của Thanh Tịnh.
Câu 5. Viết một bài văn nghị luận: “Sức mạnh của tình thương trong cuộc sống con người”, có sử dụng dẫn chứng từ truyện Am cu ly xe.
Câu hỏi trắc nghiệm
Câu 1. Nhân vật chính trong truyện ngắn Am cu ly xe là ai?
A. Đứa cháu nhỏ
B. Ông già mù kéo xe
C. Người kể chuyện
D. Bà bán hàng nước
Đáp án: B
Câu 2. Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Am cu ly xe là từ nhân vật nào?
A. Đứa bé
B. Người kéo xe
C. Người kể chuyện – nhân vật “tôi”
D. Người dân làng Thanh Trúc
Đáp án: C
Câu 3. Hành động đứa bé đặt tảng đá lên xe thể hiện điều gì?
A. Sự nghịch ngợm trẻ con
B. Sự thương hại với ông mình
C. Lòng hiếu thảo và tấm lòng thơ ngây
D. Sự thiếu hiểu biết
Đáp án: C
Câu 4. Hình ảnh chiếc xe tay loang loáng giữa đêm có ý nghĩa gì?
A. Thể hiện sự tồn tại dai dẳng của cái nghèo
B. Thể hiện tình cảm thiêng liêng vượt qua cái chết
C. Gợi sự huyền bí trong tâm linh
D. Cả B và C
Đáp án: D
Câu 5. Nghệ thuật nào được sử dụng nổi bật trong truyện Am cu ly xe?
A. Kể theo ngôi thứ nhất kết hợp miêu tả nội tâm
B. Sử dụng hình ảnh kỳ ảo kết hợp với hiện thực đời thường
C. Xây dựng hình tượng mang tính biểu tượng cao
D. Cả A và B
Đáp án: D