Phân tích bài Hội Tây
Truyền thống yêu nước từ bao đời nay luôn được mỗi người con đất Việt khắc ghi và học tập. Nguyễn Khuyến đã dùng chính trang thơ của mình để bày tỏ nỗi niềm thầm lặng về lòng yêu nước.Tác phẩm thể hiện lòng yêu nước rõ nét nhất là bài thơ Hội Tây
Dàn ý Phân tích bài Hội Tây
1. Mở bài
Giới thiệu vấn đề cần nghị luận (bài thơ Hội Tây)
2. Thân bài
– Hoàn cảnh sáng tác:
+ Được sáng tác khoảng cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX khi Thực dân Pháp sang xâm lược và thực hiện chính sách đồng hóa ở nước ta.
– Phân tích 2 câu thơ đầu:
+ Miêu tả một cảnh hội thăng bình vui tươi, hân hoan, với tiếng pháo reo và trang trí bằng cờ kéo và đèn treo.
+ Nó tạo ra một không gian phấn khởi và vui vẻ cho người tham gia.
+ Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ ra rằng sự sôi động này chỉ là bề nổi, còn bên trong lại là những vấn đề tiêu cực.
– Phân tích 2 câu thơ tiếp:
+ Là những hình ảnh miêu tả sự bất công và bất bình đẳng trong xã hội.
+ Có những người giàu có và quyền lực bà quan thì chỉ biết thưởng thức và tận hưởng, trong khi những người nghèo khó như thằng bé lại phải làm việc vất vả và không được công nhận.
– Phân tích 2 câu thơ tiếp:
+ Miêu tả sự tham lam và vô đạo đức của một số người trong xã hội.
+ Họ sẵn lòng làm bất cứ điều gì để kiếm tiền và leo lên xã hội, mặc dù điều đó có thể gây hại cho người khác.
– Phân tích 2 câu thơ cuối:
+ Lễ hội được đưa ra chơi là với thành phần là người An Nam.
+ Họ vì tham tiền và ham vui nên liều mạng tham gia, bất chấp danh dự và nhân phẩm của mình.
+ Khi thực dân Pháp đem người dân An Nam ra làm trò để mua vui chính là khi họ không coi người dân An Nam là con người.
3. Kết bài
– Rút ra nội dung mà bài thơ muốn phản ánh
– Miêu tả một cảnh hội chợ tây phương trong xã hội Việt Nam thời đó và phê phán những vấn đề xã hội cũ.
Phân tích bài Hội Tây
Nguyễn Khuyến được coi là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Người phải thực sự yêu và cảm thấy đau xót trước hiện thực của vận mệnh dân tộc thời bấy giờ mới có thể cảm thụ mà sáng tác nhiều bài thơ thể hiện nỗi niềm u hoài của mình về vận mệnh dân tộc. Một trong những tác phẩm thể hiện lòng yêu nước là tác phẩm Hội tây của Nguyễn Khuyến.
‘’Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo.
Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom nghé hát chèo.
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.
Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!’’
Bài thơ “Hội Tây” của Nguyễn Khuyến là một tác phẩm châm biếm, miêu tả một cảnh hội chợ tây phương trong xã hội Việt Nam thời đó. Được sáng tác khoảng cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX khi Thực dân Pháp sang xâm lược và thực hiện chính sách đồng hóa ở nước ta. Bài thơ mang tính chất phê phán và nhìn nhận một cách sắc bén về những hiện tượng xã hội đáng tiếc.Trong bài thơ, tác giả sử dụng hình ảnh và ngôn ngữ hài hước để miêu tả cảnh hội chợ.
“Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo,
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo.”
Câu thơ “Kìa hội thăng bình” có thể được hiểu là một sự kiện vui tươi, hân hoan, có tính chất đại hội, tụ họp của nhiều người. Từ “thăng bình” có thể ám chỉ sự hòa bình, sự đoàn kết kết hợp với từ ‘’tiếng pháo reo’’ thường được sử dụng để chào mừng, tạo không khí phấn khởi và vui tươi. “Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo”: Hình ảnh này có thể ám chỉ sự trang trí, làm đẹp cho không gian của hội thăng bình. Đoạn thơ “Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo/Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo” miêu tả một cảnh hội thăng bình vui tươi, hân hoan, với tiếng pháo reo và trang trí bằng cờ kéo và đèn treo. Nó tạo ra một không gian phấn khởi và vui vẻ cho người tham gia.Tiếng pháo reo, cờ kéo và đèn treo tượng trưng cho sự sôi động và rực rỡ của hội chợ. Cờ kéo và đèn treo thường được sử dụng để tạo ra một không gian lung linh, rực rỡ. Đoạn thơ này có thể miêu tả một cảnh hội thăng bình, nơi mọi người tụ họp, vui chơi và tận hưởng không khí vui tươi, hân hoan. Tiếng pháo reo và hình ảnh cờ kéo với đèn treo tạo ra một không gian trang trí đẹp mắt, tươi sáng, tạo cảm giác phấn khởi và vui vẻ cho người tham gia . Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ ra rằng sự sôi động này chỉ là bề nổi, còn bên trong lại là những vấn đề tiêu cực. ‘’Bà quan tênh nghếch xem bơi trải, thằng bé lom khom nghé hát chèo’’ là những hình ảnh miêu tả sự bất công và bất bình đẳng trong xã hội. Có những người giàu có và quyền lực bà quan thì chỉ biết thưởng thức và tận hưởng, trong khi những người nghèo khó như thằng bé lại phải làm việc vất vả và không được công nhận. Qua đó phơi bày hiện thực đau đớn về tình trạng nô lệ của đất nước dưới bọn quân xâm lược. Điều đau đớn hơn nữa là những người nô lệ này đã không nhận thức được nỗi nhục mất quê hương mà rơi vào một trò chơi do thực dân Pháp bày ra để dụ dỗ nhân dân. Câu “Cậy sức cây đu nhiều chị nhún, tham tiền cột mỡ lắm anh leo” miêu tả sự tham lam và vô đạo đức của một số người trong xã hội. Họ sẵn lòng làm bất cứ điều gì để kiếm tiền và leo lên xã hội, mặc dù điều đó có thể gây hại cho người khác. Cuối cùng, câu “Khen ai khéo vẽ trò vui thế, vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!” nhấn mạnh rằng những trò vui và niềm vui tạm thời chỉ làm che giấu những vấn đề và nhục nhã trong xã hội.Tác giả như đang châm biếm, đã cảm nhận rõ sự lố bịch của trò chơi. Một trò chơi hết sức nực cười, dù là phê phán nhưng chính tác giả cũng cảm nhận nó qua những lời thơ hóm hỉnh và hài hước.
“Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!’’
Người phương Tây tổ chức các lễ hội để giải trí. Lễ hội được đưa ra chơi là với thành phần là người An Nam. Họ vì tham tiền và ham vui nên liều mạng tham gia, bất chấp danh dự và nhân phẩm của mình. Họ sưu tầm tất cả các trò chơi dân gian truyền thống của đất nước, từ ca hát, leo cột cho đến đánh đu.Các trò chơi truyền thống, những phong tục tập quán của tổ tiên để lại họ dùng nó để làm công cụ mua vui cho thực dân Pháp.Nhưng nam nữ thanh niên vẫn nhiệt tình tham gia, khoe vẻ ngoài kỳ dị, xấu xí, mang lại tiếng cười cho thực dân Pháp. Thật hổ thẹn thế nhưng có thật là Vui sao? Cặp quan hệ từ tăng tiến bao nhiêu – bấy nhiêu đã khiến tôi và những người dân Việt cảm thấy nghẹn lòng.
Nguyễn Khuyến đã thật sự cảm nhận được sự phẫn uất của khi chứng kiến đồng bào mình bỏ mặc danh dự, nhân phẩm đi làm trò mua vui cho kẻ ngoại xâm. Tác giả cho rằng, niềm vui thực sự chỉ đến khi xã hội được cải thiện và những vấn đề xã hội được giải quyết. Ông cho rằng khi thực dân Pháp đem người dân An Nam ra làm trò để mua vui chính là khi họ không coi người dân An Nam là con người, không có tiếng nói, và luôn nhằm âm mưu biến người An Nam làm công cụ để tiêu khiển. Bài thơ “Hội Tây” của Nguyễn Khuyến dùng những hình ảnh và từ ngữ để lột tả hiện thực khốc liệt thời bấy giờ. Bài thơ Hội Tây là một tác phẩm châm biếm, miêu tả một cảnh hội chợ tây phương trong xã hội Việt Nam thời đó và phê phán những vấn đề xã hội cũ. Tác giả sử dụng hình ảnh và ngôn ngữ hài hước để truyền đạt thông điệp của mình, qua đó ta cảm nhận sâu sắc thái độ mỉa mai, châm biếm khi lột tả một hiện thực thời bấy giờ vô cùng khốc liệt.
Bài thơ “Hội Tây” của Nguyễn Khuyến là một tác phẩm trào phúng miêu tả không khí vui tươi, phấn khởi của xã hội phương Tây nhưng cũng thể hiện lòng yêu nước, sự quan tâm đến vận mệnh đất nước, dân tộc.