Viết bài văn trình bày cảm nhận về vẻ đẹp của bài thơ Thề non nước (Tản Đà).

Tìm hiểu tác giả Tản Đà và bài thơ Thề non nước

Tác giả Tản Đà

Tiểu sử:

– Tản Đà (19/5/1889 – 7/6/1939), tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu.

– Sinh tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc xã Sơn Đà, huyện Ba Vì, Hà Nội).

– Xuất thân từ dòng họ khoa bảng lâu đời với nhiều nhân vật lịch sử và danh nhân văn hóa.

Cuộc đời:

– Tản Đà mất cha khi mới 3 tuổi, và mẹ khi 4 tuổi trở lại nghề ca hát, ông được người anh cùng cha khác mẹ nuôi dưỡng và cho ăn học.

– Năm 1907, ra Hà Nội học, nhưng thi Hương không đỗ.

– Từ 1915, chuyển hẳn sang nghề cầm bút, bắt đầu với việc viết tuồng và các sáng tác văn học.

– Năm 1921, làm chủ bút tờ Hữu Thanh tạp chí, sau đó từ chức và lập Tản Đà thư điếm.

– Tháng 2 năm 1928, trở về Bắc sau chuyến du lịch vào Nam, rồi lên định cư tại vùng Yên Lập (Vĩnh Yên) nhưng gặp nhiều khó khăn.

– Những năm cuối đời, ông sống nghèo khó, dịch thơ Đường và viết báo để kiếm sống.

Sự nghiệp:

– Tản Đà là một nhà văn, nhà thơ có ảnh hưởng lớn trong văn học Việt Nam đầu thế kỷ 20.

– Ông được xem là người chuẩn bị cho sự ra đời của Thơ mới, là “gạch nối giữa hai thời kỳ văn học cổ điển và hiện đại”.

– Các tác phẩm nổi tiếng gồm thơ, văn xuôi, tuồng và dịch thơ Đường.

– Từng làm chủ bút tạp chí Hữu Thanh, An Nam tạp chí.

– Hiệu “Tản Đà” được lấy từ tên núi Tản Viên và sông Đà, thể hiện sự kết nối với quê hương.

Bài thơ Thề non nước

Bài đọc

Thề non nước

Nước non nặng một nhời thề,
Nước đi đi mãi không về cùng non.
Nhớ nhời “nguyện nước thề non”,
Nước đi chưa lại, non còn đứng không.
Non cao những ngóng cùng trông,
Suối tuôn dòng lệ chờ mong tháng ngày.
Xương mai một nắm hao gầy,
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương.
Giời tây chiếu bóng tà dương,
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha.
Non cao tuổi vẫn chưa già,
Non thời nhớ nước, nước mà quên non!
Dẫu rằng sông cạn đá mòn,
Còn non còn nước, hãy còn thề xưa.
Non xanh đã biết hay chưa?
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn.
Nước non hội ngộ còn luôn,
Bảo cho non chớ có buồn làm chi!
Nước kia dù hãy còn đi,
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui.
Nghìn năm giao ước kết đôi,
Non non nước nước không nguôi nhời thề.

Nội dung: Bài thơ Thề non nước của Tản Đà không chỉ nói lên mối tình nam nữ thủy chung son sắt mà còn bàng bạc một tình cảm yêu nước thầm kín, thiết tha lúc đất nước còn chưa được độc lập, tự do.

Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ ‘Thề non nước’ được viết trong một buổi dạo chơi cùng bạn bè. Tản Đà lấy cảm hứng từ một bức tranh sơn thủy mà họ đã thảo luận. Dù bức tranh chỉ có núi mà không có dòng nước, chỉ có dãy dâu xanh dưới chân núi, nhưng từ đó ông đã viết ra câu chuyện tình yêu đầy cảm xúc, cùng với tình yêu sâu sắc đối với quê hương.

Nghệ thuật: Trong ‘Thề non nước’, Tản Đà sử dụng biện pháp ‘phân – hợp’ và ngôn từ đặc biệt để gợi lên những tình cảm sâu sắc. Thể thơ lục bát được kết hợp với hình ảnh ẩn dụ thân thuộc, tạo nên một tác phẩm đầy ý nghĩa về tình yêu đất nước.

Dàn ý chi tiết cảm nhận về vẻ đẹp của bài thơ Thề non nước của Tản Đà

Mở bài

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, nêu vấn đề cần nghị luận.

Thân bài

Phân tích vẻ đẹp của bài thơ Thề non nước:

– Những đặc sắc nghệ thuật của bài thơ:

+ Bài thơ sử dụng cấu tứ theo lối kể chuyện. Lời tâm tình bắt đầu từ việc non – nước thề nguyền mãi bên nhau nhưng sau đó vì hiện thực đổi dời, nước đi đi mãi khiến cho non ở lại thương nhớ, héo mòn. Nhưng “Nước đi ra bể lại mưa về nguồn”, nước vẫn giữ trọn lời thê thuỷ chung son sắt cùng non (Nghìn năm giao ước kết đôi/ Non non nước nước chưa nguôi nhời thế.).

+ Tác giả sử dụng thể thơ lục lục bát uyển chuyển chuyển, nhịp nhàng, phù hợp để diễn tả những cảm xúc nhẹ nhàng, sâu lắng của bài thơ.

+ Hình tượng nghệ thuật được sử dụng trong bài thơ là cặp hình tượng đa nghĩa non – nước. Hình tượng non nước ẩn dụ cho lứa đôi thề nguyền son sắt, cho tình cảm thầm – kín mà sâu sắc tác giả dành cho đất nước trong bối cảnh Tổ quốc mất chủ quyền. Cặp hình tượng khi thì sóng đôi bên nhau, khi thì tách rời.

– Bài thơ là câu chuyện giữa non và nước, qua đó bày tỏ tình cảm lứa đôi thuỷ chung:

+ Mở đầu bài thơ là hình ảnh non nước với thề nguyền son sắt, đặt cạnh nhau tưởng chừng như không gì chia cách được (Nước non nặng một nhời thề), sau đó là hiện thực nuoc – non xa cách, tách biệt, nước đi như một tất yếu khách quan của quy luật vận động, còn non đứng lại, chỉ biết chờ mong (Nước đi, đi mãi không về cùng non/ Nhớ nhời “nguyện nước thề non”/ Nước đi chưa lại non còn đứng không).

+ Hình ảnh non hao gầy, cô đơn mong ngóng nước, đậm một nỗi u buồn sâu kín (Non cao những ngóng cùng trông … Non thời nhớ nước, nước mà quên non.). Thông qua biện pháp tu từ nhân hoá và ẩn dụ, hình ảnh non hiện lên mang màu sắc thể lương, tàn tạ.

+ Niềm tin, sự lạc quan về tấm lòng thuỷ chung, sau như một của con người được thể hiện ở sự hội ngộ nước – non trong những câu thơ cuối. Sự trở lại của nước cũng tuân theo quy luật tự nhiên bất di bất dịch (Nước đi ra bể lại mưa về nguồn). Đáp lại sự chung thuỷ đợi chờ của non là tấm lòng sắt son của nước (Nghìn năm giao ước kết đôi/ Non non nước nước chưa nguôi nhời thề.).

 

– Bài thơ gửi gắm lòng yêu nước thầm kín của tác giả:

+ Bài thơ được viết trong giai đoạn đất nước đang rơi vào cảnh lầm than dưới quyền cai trị của thực dân Pháp.

+ Sự buồn thương, nhớ tiếc của non dành cho nước là ẩn dụ cho cảm xúc buồn bã của con người trong bối cảnh hiện thực. Kể về sự chia tách của nước và non nhưng cuối cùng dẫn tới cuộc hội ngộ về sau nhằm hàm ý khẳng định niềm tin của tác giả về tương lai sum họp một nhà của đất nước.

+ Trong hoàn cảnh đương thời, để tránh trực tiếp bàn về đất nước như một chủ đề nhạy cảm, Tản Đà đã khéo léo lồng ghép tư tưởng sâu xa của bài thơ vào câu chuyện non – nước xưa nay. (Học sinh có thể liên hệ tới một số sáng tác tương tự như: Nhớ rừng (Thế Lữ), Gánh nước đêm (Trần Tuấn Khải), Vịnh bức địa đồ rách (Tản Đà),…)

– Khái quát chủ đề và đặc sắc nghệ thuật, ý nghĩa của bài thơ:

+ Nội dung: Thông qua câu chuyện của non và nước, nhà thơ đã gửi gắm những tình cảm cao đẹp, đó là tình yêu đôi lứa sắt son bền vững, là tình yêu đất nước thầm kín mà sâu sắc.

+ Nghệ thuật: Thể thơ lục bát tự nhiên, gần gũi; hình ảnh thơ giàu xúc cảm; âm điệu sâu lắng đậm đà màu sắc dân tộc; sử dụng một số thành ngữ quen thuộc, mô típ thể nguyền, gửi gắm những bài học sâu xa; ngôn ngữ hàm súc, trong sáng, đa nghĩa,…

Cảm nhận về vẻ đẹp của bài thơ Thề non nước

Nếu hỏi về nhà văn nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam, không ai khác ngoài Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Ông nổi bật với phong cách sáng tạo, sử dụng ngôn ngữ một cách tài tình và linh hoạt. Tản Đà được xem là người ‘gắn kết hai nền văn hóa’. Tác phẩm đặc biệt nhất của ông là bài thơ ‘Thề non nước’, chứa đựng nhiều tâm hồn và cảm xúc sâu xa.

Bài thơ ‘Thề non nước’ được viết trong một buổi dạo chơi cùng bạn bè. Tản Đà lấy cảm hứng từ một bức tranh sơn thủy mà họ đã thảo luận. Dù bức tranh chỉ có núi mà không có dòng nước, chỉ có dãy dâu xanh dưới chân núi, nhưng từ đó ông đã viết ra câu chuyện tình yêu đầy cảm xúc, cùng với tình yêu sâu sắc đối với quê hương.

Cảm nhận đầu tiên khi đọc bài thơ là một không gian buồn bã, chia ly, nhưng qua từng câu thơ, người đọc cảm nhận được sự đẹp đẽ và sâu lắng của tình yêu và niềm tin.

‘Nước non thề với lòng chân thành
Nhưng nước đi mãi, không về bên non
Nhớ lời nguyện thề bên non
Nước đi chưa về, non còn ngóng chờ?’

Bức tranh buồn của cuộc chia ly giữa nước và non hiện lên rõ ràng. Dù đã thề với nhau một lời, nhưng ‘nước đi mãi, không về bên non’. Khúc thơ truyền tả một cảnh buồn sâu của việc chia tay, khi tình yêu của họ dường như không thể nối kết được. Tản Đà đã biến hình ảnh non và nước thành biểu tượng cho mối quan hệ của đôi trai gái yêu nhau, từ đó thể hiện được tâm trạng của họ.

‘Nước non thề với lòng chân thành
Nhưng nước đi mãi, không về cùng non’

Nước và non đã thề với nhau, nhưng ‘nước’ rời đi một mình, dường như không trở về bên ‘non’. Câu thơ trở thành một câu hỏi đầy nghĩa trọng. Khi đọc, người đọc không thể không nghĩ đến cuộc chia ly đau lòng của những người yêu nhau. Trong khi ‘nước’ ra đi, chỉ còn lại ‘non’ ở lại, chờ đợi, nhớ nhung, mong đợi. Tản Đà đã sử dụng từ ngữ một cách thông minh để tạo ra một hình ảnh sâu sắc về sự tách biệt của nước và non.

Tản Đà đã sử dụng hai hình ảnh quen thuộc ‘non’, ‘nước’ để ẩn dụ về những con người, đặc biệt là những người yêu nhau phải xa cách. Dù đã thề ‘non hẹn biển’ nhưng liệu người phu quân, người tình có trở về hay không, và người vợ, người giai nhân có đợi chờ họ trở về không?

Hình ảnh của nước non bây giờ đã chia ly, trở thành hai thế giới khác biệt. Từ sự chia ly này, non và nước lại trở nên rõ ràng hơn, cụ thể hơn trong những câu thơ sau:

‘Non cao trông ngóng chờ
Suối cạn lệ chảy dài ngày chờ mong
Xương mai nắng gắt tàn phong
Tóc mây phai nát đợi chờ tuyết sương
Bóng dài nghiêng dáng vàng hường
Càng trải dải cảnh, nét duyên vàng thêm lạ’

Không còn hình ảnh mơ hồ, giờ đây là hình ảnh của người con gái với những hình ảnh như ‘xương mai’, ‘tóc mây’, ‘vẻ vàng’, ‘nét duyên vàng’. Người con gái hiện lên qua hình ảnh của ‘non’ với vẻ đẹp tuyệt vời nhưng lại đong đầy nỗi buồn đau và cô đơn. Đọc những câu thơ này, người đọc cảm nhận được nỗi buồn sâu thẳm của cuộc chia ly đã lấp đầy từng từng câu chữ. Tản Đà đã dùng hình ảnh ước mơ để miêu tả người con gái và cũng dùng nghệ thuật đó để diễn đạt nỗi đau của nàng. Nếu như Nguyễn Du miêu tả tâm trạng Thúy Kiều với những:

Nhìn ra biển chiều buồn rầu
Thuyền xa cánh buồm nhòa mờ bay đi
Buồn nhìn sóng nước cuốn trôi
Hoa đào lụi tàn về nơi xa xăm

Tản Đà, trong nỗi buồn đau tương tư không kém Kiều của Nguyễn Du, khắc họa hình ảnh cô gái trong tình yêu bi kịch. Cô nhìn ra biển chiều buồn, ‘nhìn sóng nước cuốn trôi’, khóc hết nước mắt. Tóc mây ngày xưa giờ đã phai màu bạc trắng. Người tình đã ra đi, chưa trở về. Mỗi từ ‘khô’ trong câu thơ ‘suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày’ nhấn mạnh nỗi cô đơn, tuyệt vọng của cô.

Chỉ vài câu thơ nhưng Tản Đà đã vẽ nên một bức tranh tương tư đầy xúc cảm. Nhưng đau lòng hơn khi ‘Non nhớ nước, nước quên non’. Người con gái vẫn trung thành với lời thề, dẫu người yêu đã quên. Nhưng cô vẫn hy vọng:

‘Cho dù sông cạn, đá mòn
Non còn, nước còn hẹn thề xưa’.

Sử dụng một tục ngữ về điều không thể, Tản Đà muốn thể hiện rằng lời thề sẽ mãi mãi còn nguyên, dù có điều gì xảy ra. Ba từ ‘còn’ lặp lại ba lần như khẳng định tình yêu bền vững của người con gái.

Người con gái chờ đợi người tình trở về, và họ đã hẹn gặp nhau:

‘Non cao có hay chăng?
Nước ra biển lại trở về nguồn
Nước non gặp gỡ vẫn luôn
Bảo non đừng khóc nữa nhé’

Người tình đã hứa sẽ quay về như ‘mưa về nguồn’ để đáp lại tình yêu của người con gái. Tản Đà sắp xếp cặp từ ‘non – nước’ khéo léo, tạo ra niềm tin và hy vọng trong tương lai.

Không chỉ thể hiện tình cảm của đôi lứa, Tản Đà còn muốn tôn vinh tình yêu dành cho quê hương, non nước, trong bối cảnh đất nước đang chịu cảnh khó khăn dưới sự cai trị của thực dân Pháp.

‘Nước vẫn chảy, non vẫn xanh
Ngàn năm giao ước kết đôi vẫn luôn còn.
Thề non nước không bao giờ phai mờ’

Ngàn năm giao ước kết đôi mang ý nghĩa của một khởi đầu mới, tốt đẹp. Cảm xúc của người chinh phụ tràn ngập niềm vui khi chờ đợi người chồng trở về. Thơ ngân vang lên sự hân hoan và hy vọng trong tương lai tươi sáng của đất nước.

Trong ‘Thề non nước’, Tản Đà sử dụng biện pháp ‘phân – hợp’ và ngôn từ đặc biệt để gợi lên những tình cảm sâu sắc. Thể thơ lục bát được kết hợp với hình ảnh ẩn dụ thân thuộc, tạo nên một tác phẩm đầy ý nghĩa về tình yêu đất nước.

Bài thơ ‘Thề non nước’ của Tản Đà toát lên vẻ đẹp trữ tình, tình cảm sâu lắng của người con gái đợi chờ người yêu trở về.

‘Nghìn năm giao ước kết đôi
Non non nước nước hứa vẹn lời thề’.

By ngocnhu

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *