Đọc hiểu

Đáp án đọc hiểu bài Người gánh nước thuê

Thông tin tác giả – tác phẩm

Tác giả: Võ Thị Hảo

  • Võ Thị Hảo là nhà văn nữ Việt Nam, sinh năm 1956, quê ở Hà Tây (nay thuộc Hà Nội).
  • Bà là cây bút văn xuôi nổi bật từ thời kỳ đổi mới (sau 1986), đồng thời là nhà báo, nhà nghiên cứu văn hóa, từng làm việc tại một số cơ quan báo chí lớn.
  • Văn chương của Võ Thị Hảo giàu tính nhân văn, khai thác sâu sắc số phận con người, đặc biệt là phụ nữ, những mảnh đời nhỏ bé bị bỏ quên trong xã hội hiện đại.
  • Tác phẩm tiêu biểu:
    • Người gánh nước thuê
    • Người sót lại của rừng cười
    • Bóng đè
    • Giàn thiêu (từng được đề cử giải thưởng văn học châu Á).

Tác phẩm: Người gánh nước thuê

  • Thể loại: Truyện ngắn hiện đại.
  • Xuất xứ: In trong tập 20 truyện ngắn chọn lọc – NXB Lao động, 2009.
  • Tóm tắt nội dung:
    Tác phẩm khắc họa chân dung và số phận bà Diễm – một người phụ nữ gánh nước thuê, sống cuộc đời nghèo khó, lam lũ. Dù mang cái tên đẹp, bà sống trái ngược hoàn toàn với ý nghĩa cái tên ấy. Cuộc đời bà gắn bó với chiếc đòn gánh – biểu tượng của gánh nặng mưu sinh. Trong xã hội đầy sự giả tạo, hợm hĩnh và vô cảm, bà Diễm bị coi thường, rẻ rúng. Cuối cùng, bà sống âm thầm và có thể sẽ chết lặng lẽ, không để lại dấu vết gì – như một “hạt bụi”.
  • Giá trị nội dung:
    • Phản ánh số phận bi thảm của những người lao động nghèo, đặc biệt là phụ nữ.
    • Phê phán thái độ vô cảm, giả tạo của xã hội, nhất là tầng lớp giàu có, sống “sĩ diện” và hình thức.
    • Đề cao sự trân trọng những giá trị lao động chân chính và lòng nhân ái.
  • Giá trị nghệ thuật:
    • Miêu tả tâm lý và ngoại hình nhân vật sắc sảo.
    • Hình ảnh gợi tả giàu tính biểu tượng (đòn gánh – nghiệp chướng, vệt nước – nước mắt,…).
    • Giọng văn kết hợp giữa trần thuật và trữ tình sâu sắc.

Đọc hiểu văn bản Người gánh nước thuê

Chẳng ai biết lai lịch của bà, chỉ biết tên bà là Diễm. Diễm là đẹp, là diễm lệ. Ngoài vẻ đẹp, còn mang vẻ sang. Có ai gọi một củ khoai là diễm lệ đâu. Hẳn bố mẹ xưa đặt tên cho con cũng thầm ao ước sao cho con vừa đẹp lại vừa khỏi lầm than. Nhưng trông bà cả một sự nhạo báng cái mong ước đó.

Dáng người bà Diễm bé loắt choắt, bộ mặt nhăn nheo, gầy sạm chỉ còn hai con mắt. Bà vừa đi vừa lắc lư cái lưng còng. Chiếc đòn gánh không bao giờ rời khỏi đôi vai còm cõi của bà. Nó bám chặt lấy bà như một thứ nghiệp chướng. Chiếc đòn gánh của bà cũng thật đặc biệt. Nó nhẵn bóng. Ngay cả những vết sẹo cũng đã nhẵn bóng và cũng khó đoán tuổi như chủ nhân của nó vậy. Nó đã tồn tại cùng bà không biết tự bao giờ. Nó được đẽo gọt từ một thân tre cong hằn dấu vết của những cơn gió táp và ra đời chỉ để đón đợi đôi vai còm cõi của bà Diễm mà thôi. Nó và chủ nhân của nó hợp thành một chỉnh thể của sự bất hạnh, hợp thành biểu tượng của một thân cây vừa mới ra đời đã bị gió mưa vùi dập. Cuối hai đầu đòn gánh là đôi thùng đầy nước lắc lư theo những bước chân không đều của bà Diễm và để lại những vệt nước rỏ ròng ròng như suối nước mắt cạnh đường đi. Những lúc đôi vai được rảnh rang, đôi môi bà lại lẩm nhẩm những câu không đầu không cuối. Bà đi và nói như người lẩn thẩn, nhưng những cử chỉ của bà vẫn chính xác một cách kỳ lạ. Đến máy nước bao giờ bà cũng đi sát mép đường bên phải và lặng lẽ đợi đến lượt mình, không xin xỏ, không tranh giành.

Những nhà có máu mặt trong khu này thuê bà gánh nước. Họ chẳng ưa gì bà. Họ săm soi xem thùng nước bà gánh về có trong không. Có đáng đồng tiền của họ bỏ ra không. Có người nghi ngờ, bắt bà tháo cả bể nước đầy ra gánh lại, lấy cớ là bà đã lấy nước bẩn vào bể của họ. Cũng có những người trả tiền sòng phẳng, hậu hĩ là khác nhưng họ đưa tiền cho bà rồi vội quay đi như chỉ sợ dềnh dàng bà nhỡ mồm bắt chuyện thì mất cả thì giờ và mất cả thể diện nữa. Con người ta thường hay chối bỏ quá khứ, nếu quá khứ đó là không vẻ vang. Người đời nay coi nó là bệnh “sĩ”. Nếu như những năm sáu mươi của thế kỷ này người ta cố chứng minh rằng gốc gác của mình là bần cố nông thì trong những năm tám mươi người ta lại cố khoe rằng nhà mình giàu có ra sao, bịa cả những chuyện đài các rởm không biết ngượng mồm. Thôi thì cũng chẳng trách họ, âu cũng là do cách nhìn người của thời đại mà ra. Những bộ mặt đần độn trát bự son phấn vênh váo, đầy kiêu hãnh giả tạo. Và trong cơn mơ đài các sang giàu của họ, bà Diễm chỉ là một kẻ làm thuê, một người gánh nước cho nhà họ.

Vậy là bà Diễm hệt như con gà trụi lông giữa đàn công sặc sỡ. Nhưng bà gắn bó với họ, đúng hơn là với bể nước nhà họ, vì chỉ có họ mới đủ sức thuê bà gánh nước. Còn đa số “người nhà nước” trong khu này chẳng ai đủ tiền để mà thuê, dù muốn giúp bà. Cơm ăn chẳng đủ, lấy đâu ra tiền mà thuê gánh nước. Đành phải xếp hàng dài dằng dặc, hoặc thức đến hai ba giờ sáng để lấy mấy thùng nước.

Với đôi thùng gánh nước, cứ thế, bà Diễm đi trong đời như kẻ mộng du và rồi có lẽ với cung cách mộng du ấy bà sẽ lặng lẽ đi xuống mồ, như một hạt bụi tan biến vào không gian chẳng để lại một mảy may dấu vết.

                   (Trích Người gánh nước thuê, Võ Thị Hảo, 20 truyện ngắn chọn lọc,

                                                         NXB Lao động, 2009, tr 291 – 293)

Câu 1 (0,5 điểm). Xác định ngôi kể trong đoạn trích.

Câu 2 (0,5 điểm). Tìm những chi tiết miêu tả ngoại hình của nhân vật bà Diễm.

Câu 3 (1,0 điểm). Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp so sánh trong câu văn sau:  “Cuối hai đầu đòn gánh là đôi thùng đầy nước lắc lư theo những bước chân không đều của bà Diễm và để lại những vệt nước rỏ ròng ròng như suối nước mắt cạnh đường đi.”

Câu 4 (1,0 điểm). Nhận xét thái độ, tình cảm của nhà văn được thể hiện qua đoạn trích trên.

Câu 5 (1,0 điểm). Từ lối sống của những người nhà giàu thuê bà Diễm gánh nước được nhà văn nói tới trong câu chuyện trên, em có suy nghĩ gì về hậu quả của căn bệnh “sĩ” trong đời sống hiện nay?

Hướng dẫn giải chi tiết

Câu 1. Đoạn trích trên được kể theo ngôi thứ ba

Câu 2. Những chi tiết miêu tả ngoại hình của nhân vật bà Diễm: Dáng người bà Diễm bé loắt choắt, bộ mặt nhăn nheo, gầy sạm chỉ còn hai con mắt. Bà vừa đi vừa lắc lư cái lưng còng.

Câu 3.

– Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ so sánh trong hình ảnh “những vệt nước rỏ ròng ròng như suối nước mắt”.

– Tác dụng của biện pháp tu từ

+ Biện pháp tu từ so sánh đã góp phần làm tăng hiệu quả diễn đạt cho lời văn, giúp câu văn trở nên sinh động, hấp dẫn và giàu sức gợi.

+ Qua đó, tác giả muốn nhấn mạnh cuộc đời cơ cực, nhọc nhằn, vất vả của nhân vật bà Diễm.

+ Ngoài ra, biện pháp tu từ này còn thể hiện sự đồng cảm và trân trọng của tác giả dành cho những con người lao động nghèo khổ. Tác giả không chỉ miêu tả mà còn gửi gắm nỗi xót xa trước những gánh nặng mưu sinh mà nhân vật phải gánh chịu, đồng thời bày tỏ lòng thương cảm với số phận của họ.

Câu 4.

+ Trong đoạn trích Người gánh nước thuê của Võ Thị Hảo, nhà văn bày tỏ sự xót xa, đồng cảm sâu sắc với số phận bà Diễm – một người phụ nữ lam lũ, bất hạnh.

+ Tác giả không chỉ miêu tả ngoại hình tiều tụy, dáng vẻ lặng lẽ mà còn khắc họa cuộc sống cơ cực, đơn độc của bà giữa một xã hội đầy rẫy sự vô tâm và phân biệt.

+ Bằng lối kể tự nhiên, chân thực, Võ Thị Hảo đã khiến hình ảnh bà Diễm hiện lên vừa đáng thương, vừa gợi suy ngẫm. Chiếc đòn gánh – vật bất ly thân của bà – được nhân hóa như một “nghiệp chướng”, một minh chứng cho cuộc đời nhọc nhằn, đầy khổ đau.

+ Đặc biệt, cách nhà văn so sánh bà Diễm như “con gà trụi lông giữa đàn công sặc sỡ” càng nhấn mạnh sự đối lập giữa một con người khốn khổ với những kẻ giàu sang nhưng vô cảm.  Qua đó, tác giả không chỉ bày tỏ lòng trắc ẩn mà còn phê phán sự thờ ơ, ích kỷ của xã hội.

+ Những dòng văn thấm đẫm tình cảm ấy khiến người đọc không khỏi chạnh lòng, cảm thương cho số phận bà Diễm và trăn trở về giá trị của sự nhân ái giữa đời thường.

Câu 5.

Căn bệnh “sĩ” – sự phù phiếm, chuộng hình thức và chạy theo hư danh – đã được Võ Thị Hảo phê phán qua hình ảnh những người nhà giàu thuê bà Diễm gánh nước.

+ Bệnh “sĩ” – sự phù phiếm, khoe khoang và trọng hư danh – đang trở thành một vấn đề đáng lo ngại trong xã hội ngày nay. Nhiều người sẵn sàng đánh đổi giá trị thật để chạy theo vẻ bề ngoài, thể hiện sự giàu sang, địa vị, dù điều đó không phản ánh đúng bản chất của họ.

+ Hậu quả là con người trở nên giả tạo, sống không chân thành, chạy theo vật chất mà quên đi những giá trị đạo đức và lòng nhân ái. Trong môi trường làm việc, bệnh “sĩ” khiến người ta chạy theo thành tích, thích phô trương hơn là cống hiến thực chất.

+ Trong gia đình, nó tạo ra sự đua đòi, khiến nhiều người sống không đúng với điều kiện thực tế, dẫn đến áp lực tài chính và mâu thuẫn.

+ Nếu không sớm khắc phục, bệnh “sĩ” sẽ làm xã mất dần sự chân thành và lòng đồng cảm.

Các câu hỏi mở rộng từ tác phẩm

Câu hỏi nội dung – tư duy – cảm nhận

Câu 1. Phân tích hình tượng chiếc đòn gánh trong truyện ngắn “Người gánh nước thuê” và cho biết hình ảnh này tượng trưng cho điều gì?

Câu 2. Tác giả đã sử dụng những chi tiết nào để khắc họa sự vô cảm và giả tạo của những người thuê bà Diễm gánh nước? Ý nghĩa của việc khắc họa này?

Câu 3. Hình ảnh bà Diễm “như một hạt bụi tan biến vào không gian chẳng để lại một mảy may dấu vết” gợi cho em suy nghĩ gì về thân phận con người trong xã hội?

Câu 4. Qua nhân vật bà Diễm, em thấy tác giả muốn nói gì về phẩm chất của người lao động nghèo?

Câu 5. Em cảm nhận như thế nào về giọng văn của Võ Thị Hảo trong truyện ngắn “Người gánh nước thuê”? Giọng văn ấy có vai trò gì trong việc truyền tải tư tưởng tác phẩm?

Câu hỏi liên hệ – vận dụng

Câu 1. Liên hệ hình ảnh bà Diễm với một nhân vật khác trong văn học Việt Nam (ví dụ: chị Dậu trong Tắt đèn, bà cụ Tứ trong Vợ nhặt) để rút ra điểm tương đồng trong số phận của người phụ nữ nghèo.

Câu 2. Từ hình ảnh bà Diễm trong truyện, em hãy viết một đoạn văn ngắn bày tỏ suy nghĩ của mình về sự đồng cảm với những người lao động nghèo trong xã hội hiện đại.

Câu 3. Em hãy liên hệ đến một hiện tượng thực tế: nhiều người vẫn đánh giá người khác qua vẻ bề ngoài hay công việc của họ. Em có suy nghĩ gì về thói quen đánh giá con người như vậy?

Câu 4. Hành động của những người “trả tiền sòng phẳng nhưng vội quay đi” phản ánh kiểu hành vi nào trong xã hội hiện nay? Nếu em chứng kiến điều đó ngoài đời, em sẽ phản ứng ra sao?

Câu 5. Liên hệ nội dung truyện với thông điệp “Mỗi người đều xứng đáng được tôn trọng” để viết một đoạn văn nghị luận ngắn (5–7 câu).

Câu hỏi trắc nghiệm khách quan

Câu 1. Truyện “Người gánh nước thuê” được kể theo ngôi kể nào?

A. Ngôi thứ nhất
B. Ngôi thứ hai
C. Ngôi thứ ba
D. Ngôi người kể chuyện giấu mình
→ Đáp án: C

Câu 2. Chi tiết nào sau đây KHÔNG nói đúng về chiếc đòn gánh của bà Diễm?

A. Luôn sáng bóng, như mới
B. Có vết sẹo, nhẵn bóng
C. Như một “nghiệp chướng” bám lấy bà
D. Là vật gắn bó lâu dài, không rời vai
→ Đáp án: A

Câu 3. Biện pháp tu từ nào được sử dụng trong câu:

“…những vệt nước rỏ ròng ròng như suối nước mắt cạnh đường đi”?
A. Ẩn dụ
B. Hoán dụ
C. Nhân hóa
D. So sánh
→ Đáp án: D

Câu 4. Câu văn “bà Diễm hệt như con gà trụi lông giữa đàn công sặc sỡ” thể hiện điều gì?

A. Bà Diễm có ngoại hình xấu xí
B. Bà Diễm nghèo khổ, bị xem thường giữa xã hội phù phiếm
C. Bà Diễm thích sống ẩn dật
D. Bà Diễm lạc loài giữa vùng nông thôn
→ Đáp án: B

Câu 5. Ý nào dưới đây thể hiện đúng nhất thông điệp của truyện ngắn “Người gánh nước thuê”?

A. Người giàu cần trả tiền xứng đáng cho người nghèo
B. Nghề nào cũng có giá trị như nhau
C. Cần trân trọng người lao động và sống nhân ái, chân thành
D. Nghèo là điều đáng xấu hổ
→ Đáp án: C

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *