Một tác phẩm nghệ thuật chân chính không bao giờ kết thúc ở trang cuối cùng (Ai-ma-tốp, Con tàu trắng).
Bằng những trải nghiệm của một đời cầm bút, nhà văn Ai-ma-tốp đã đem đến cho chúng ta chân lý muôn đời về sức sống trường cửu của văn chương nghệ thuật. Còn nhớ một câu hát rằng: Người đã ra đi khó thể trở lại, vâng con người ta sinh ra từ cát bụi và rồi lại trở về cát bụi, nhưng dư âm còn lại chính là những thông điệp nhân sinh mà nhà văn gửi gắm trong tác phẩm. Nó có sức mạnh tạo nên những cuộc đối thoại miên man bất tận. Chính vì thế có ý kiến cho rằng: Khi tác phẩm kết thúc, ấy là lúc cuộc sống của nó mới thực sự bắt đầu.
Bất tử, vĩnh hằng, vượt thoát khỏi sự băng hoại của thời gian, đó luôn là một niềm hạnh phúc lớn lao đồng thời cũng là một sứ mệnh đau đớn không thể chối từ khi nhà văn sáng tạo nên tác phẩm. Người ta thường nói vui: “chết là hết” nhưng ý kiến cho rằng khi tác phẩm kết thúc, ấy là lúc cuộc sống của nó mới thực sự bắt đầu, phải chăng đang đi ngược lại diều đó. Quả là một cú lội ngược dòng ngoạn mục để chống lại bàn tay thần chết. Ý kiến ấy bàn đến sức sống của văn học đồng thời gắn với quy luật tiếp nhận của độc giả.
Vậy trước hết ta phải hiểu khái niệm: Tác phẩm văn học là gi? Mỗi tác phẩm là một văn bản ngon từ hoàn chỉnh mà thông qua nó, nhà văn muốn gửi gắm những suy ngẫm, cách đánh giá của mình về thế giới và nhân sinh. Công việc sáng tác ấy cũng như một trò chơi ngôn ngữ đẩy biến ảo mà ở đó nhà văn phải đặt ra luật chơi cho chúng. Nghĩa là anh ta từ đống quặng thô ráp, bộn bề của cuộc sống, thông qua quá trình chế ngự chất liệu, vật liệu để tổ chức hệ thống hình tượng, sáng tạo ra những hình tượng nghệ thuật và sắp xếp ngôn từ, anh sẽ tạo nên một chất kim quý giá – tác phẩm văn chương.
Tuy nhiên, từ khi nhà văn cất bút viết những con chữ đầu tiên cho đến khi hạ phẩm là một văn bản mở, chỉ khi nào có sự đánh giá tiếp nhận từ nhiều hướng của độc giả thì nó mới trở thành một tác phẩm nghệ thuật theo đúng nghĩa. Nói như M. Go-ro-ki thì: Nhà văn là người sáng tạo ra tác phẩm nhưng chính người đọc tạo nên số phận cho nó. Bằng trình độ và vốn hiểu biết của mình, người đọc đi sâu vào tác phẩm dùng trí tưởng tượng phong phú để tái hiện hình ảnh cuộc sống được phản ánh. Tuy có nhiều cách hiểu khác nhau nhưng tựu trung lại đều không nằm ngoài cái ý cốt lõi ban đầu của tác giả.
Như loài hoa phải nhờ đến những cánh bướm mới có thể khoe sắc, khoe hương, tác phẩm văn học cũng vậy. Sáng tạo nghệ thuật là hành trình vươn tới tự do, còn tiếp nhận văn học cũng là sự khao khát huớng tới khám phá chân trời tự do Nói như Ê-go I-sa-ép: cuộc sống trong ngôn từ lâu dài hơn bản thân đời người, bởi khi khép trang sách lại, người đọc vẫn không ngùng miên man nghĩ về những câu chuyện mà nhà văn đã gợi ra và dường như còn bỏ lửng. Thiết nghĩ, văn chương không thể tự nó vượt thời gian mà phải bay lên nhờ đôi cánh của người đọc.
Hiện thực cuộc sống vốn dĩ phong phú muôn màu, khi đi qua lăng kính sáng tạo của nghệ sĩ lại càng thêm lung linh nhiều góc cạnh. Tiếp nhận văn học hay cảm thụ văn học chính là sống hết mình với nó, rung động tận độ với tác phẩm, vừa đắm mình trong thế giới nghệ thuật của nhà văn vừa tỉnh táo lí trí lắng nghe tiếng nói của tác giả. Một người đọc thông minh sẽ biết xem xét tác phẩm ở mọi ngóc ngách, phương diện, như đang cầm trên tay một khối vuông ru-bích mà xoay nó theo nhiều chiều. Ở mỗi góc độ ta lại khám phá ra những nội dung mới lạ. Chính vì thế mà có người cho rằng, xét đến cùng thì lịch sử văn học cũng chính là lịch sử của quá trình tiếp nhận.
Ai đó đã nói: Viết hay là không nói hết. Nhà văn phải là người trao cho độc giả chiếc chìa khoá vàng để mở cánh cửa đi vào tác phẩm, còn mở được đến đâu thì điều đó phụ thuộc vào trình độ giải mã các kí hiệu thẩm mĩ, vào tri thức, vốn sống và trí tưởng tượng của người đọc. Vì thế, có nhiều ý kiến thậm chí trái chiếu được đưa ra về cùng một tác phẩm. Ai cũng biết Truyện Kiều của Nguyễn Du là kiệt tác thiên thu tuyệt diệu từ nhưng xung quanh tác phẩm cũng có những đánh giá mâu thuẫn. Các nhà phê bình hiện đại với cảm quan tiến bộ nhìn cuộc đời Kiều như một tấm gương oan khổ nhưng đồng thời cũng là một viên ngọc, một bông sen gần bùn mà chẳng hỏi tanh mùi bùn:
Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc
Sắc tài sao mà lắm truân chuyên
(Chế Lan Viên)
Thế nhưng, nhà nho Nguyễn Công Trứ lại viết những câu thơ oán trách:
Bạc mệnh chẳng låm người tiết nghĩa
Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm
Hai cái nhìn hoàn toàn khác nhau do bị chi phối bởi thời đại và xã hội. Có phải thế chăng mà không bao giờ có được tiếng nói cuối cùng trong nghệ thuật. Cũng có những tác phẩm ngay khi ra đời đã được chào đón nhưng cũng có những trường hợp bị chê trách, sau đó mới được nhìn nhận đánh giá lại như tác phẩm Bà Bô-la-ry của Phlo-be hay An-na Ka-rê-ni-na của L. Tôn-xtôi. Trong văn học Việt Nam, Vũ Trọng Phụng với tác phẩm Số đỏ cũng là một điển hình tiêu biểu. Khi đứa con tinh thần của Vũ chào đời, nó đã bị quy kết là dâm thứ và mãi đến sau này có một thời người sinh ra nó còn bị đánh đồng với nhóm Nhân văn giai phẩm. Cho đến mấy chục năm sau, đứa con nghịch tử ấy mới được đưa vào giảng dạy trong nhà trường bởi sự thức nhận giá trị hiện thực sâu sắc cùng bút pháp trào phúng sắc sảo có một không hai của một tác phẩm ghê gớm có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học (Nguyễn Khải) này.
Có thể nói, tiếp nhận tác phẩm chính là công đoạn cuối cùng trong cuộc hành trình sáng tạo đầy gian truân, khó nhọc. Bằng trái tim và khối óc, người đọc thâm nhập vào tầng sâu của văn bản để khôi phục lại những nét mờ, lấp đầy những khoảng trống, làm hồi sinh tác phẩm một lần nữa, biến nó thành một sinh thể sống có số phận, có suy nghĩ và nhận thức.
Nói như Lưu Hiệp trong thiên Tri âm của Văn tâm điêu long: Người làm văn tình cảm rung động mà phát ra lời, người xem văn phải rẽ văn để thâm nhập vào tác phẩm. Người nghệ sĩ muốn cho đứa con tinh thần của mình có thể bất tử được với thời gian phải tạo nên mối đối thoại nhiều chiều với độc giả, phải tuân thủ theo nguyên lí tảng băng trôi với bảy phần tám tảng băng trôi dưới nước để cho một phần lộ ra. Cây bút tài hoa là người biết tạo cho tác phẩm những khoảng trống, những nốt lặng để người đọc tha hồ khám phá. Ngay chi với một Đôn Ki-hô-tê nhưng Xéc-van-tét da tạo cho ngưoi doc nhiều cách hiểu. Đối với người Tây Ban Nhac thì đó là một người điên, buồn cười nhưng với người Anh thì Đôn Ki-hô-tê lại là một bi kịch. Trong khi đó, những nhà nghiên cứu mang cảm quan hiện thực chủ nghĩa lại cho nhân vật này là sự hạ bệ lí tưởng anh hùng phi thực tế, ảo tưởng…
Như vậy, muốn hiểu rõ và nắm bắt được linh hồn của tác phẩm thì người đọc không chỉ dùng tình cảm để cảm nhận mà còn phải dùng lí trí để phân tích. Văn bản kết thúc nhưng dư âm của nó thì còn vang vọng mãi. Nó đòi hỏi người đọc phải tự nâng mình lên, trau dồi tri thức, hiểu biết để biến vốn sống thành chất sống. Có như thế mới đồng hành cùng nhà văn trong việc sáng tạo tác phẩm chân chính.
Trước sự ra đi của một nhà văn ta nghĩ đến sự bất tử của một ngòi bút. Như những ngôi sao băng đã kịp loé rạng một lần trước khi tắt, bằng tác phẩm văn học, người nghệ sĩ chân chính đã để lại cho bạn đọc một lẽ sống cao cả của tâm hồn. Đời xa, không ai thấy mặt nhà văn nhưng khi xem văn liền thấy lòng của họ. Tôi nghĩ như vậy.